Nhân khẩu Ngũ_Đại_Thập_Quốc

"Trọng bình hội kì đồ" của Chu Văn Củ, biểu hiện cảnh sinh hoạt cung đình hoặc văn sĩ Nam Đường

Từ hậu kỳ triều Đường đến thời Ngũ Đại Thập Quốc, do chiến loạn kéo dài và thiên tai nên kinh tế khu vực Trung Nguyên bị tàn phá rất nặng. Sau loạn Hoàng Sào, trong suốt 60-70 năm, chiến sự lớn nhỏ không dừng. Binh dịch và các loại lao dịch ở khu vực Hoa Bắc rất nặng nhọc. Những người thống trị xem nhân mạng như cỏ rác, quần chúng vô tội thường bị thảm sát. Chiến tranh và lao dịch nặng nhọc khiến hàng vạn người chết đói hoặc lưu tán tha hương. Giả dụ như vào hậu kỳ triều Đường, Tần Tông Quyền từ Thái châu đánh ra tứ phía, từng đánh chiếm Đông Đô, hình thành tình huống "nhìn xa nghìn lý, không thấy khói lửa".[tham 47] Khi Chu Ôn giao chiến với Thì Phổ ở Từ châu, nông nghiệp ba châu Từ, Tứ và Hào bị phá hoại. Khi Chu Ôn giao chiến với Lưu Nhân Cung ở Hà Bắc, một dải từ Ngụy châu đến Thương châu bị phá hoại, trận chiến ở Định châu khiến cho hơn 6 vạn người tử thương. Khu vực Trường An, Lạc Dương vốn là nơi tập trung tinh hoa của triều Đường, song khi Chu Ôn buộc Đường Chiêu Tông đông thiên, ông ta cũng buộc người dân phải thiên di, đồng thời phá bỏ phòng ốc, đốt cháy hoàn toàn, không đầy 100 hộ trở về. Sau đó, xảy ra chiến sự giữa Hậu Lương và Tấn, khiến cho vùng Tấn Nam-Dự Bắc có không ít địa phương "làng không thóc lúa, ấp không khói lửa". Để ngăn chặn quân Tấn, Hậu Lường từng vài lần làm vỡ đê Hoàng Hà, khiến vùng Hà Nam và Sơn Đông nước lụt tràn ngập, dân không kham nổi. Đến giữa thời kỳ Hậu Đường và Hậu Tấn, khu vực Hoa Bắc bị Khiết Đan Quốc tiến đánh và quấy nhiễu; đất Yên châu Lô Long nhiều lần bị kị binh Khiết Đan cướp bóc đốt phá, trong vài nghìn lý "dân vật đãi tận". Đặc biệt là sau khi quân Khiết Đan nam hạ đánh chiếm Biện châu, trong phạm vi hàng trăm lý giữa Khai Phong và Lạc Dương, dân cư chỉ còn rất ít, bách tính Tương châu có đến hơn vạn người bị giết chết. Thời Hậu Hán, các phiên trấn như Hà Trung và Phượng Tường phản lại triều đình, thi thể người chết trận và chết đói có trên 20 vạn. 12 châu của Bắc Hán vào thời Thịnh Đường có đến 28 vạn hộ, song vào lúc Bắc Hán mất nước thì chỉ có hơn 3 vạn hộ, tức là chỉ còn lại 1/8 so với thời thịnh Đường. Năm 838, thời Đường Văn Tông, Đại Đường có 4,99 triệu hộ, đến khi triều Tống thống nhất Trung Quốc thì có 3,79 triệu hộ, tức trong vòng 140 năm giảm đi 120 vạn hộ, qua đó có thể thấy thời Đường mạt và Ngũ Đại, chiến loạn kịch liệt còn dân sinh thì thống khổ.[tham 48]

Hậu kỳ triều Đường, phương nam chịu ảnh hưởng từ biến Bàng Huânloạn Hoàng Sào, tuy nhiên sang đến thời Thập Quốc thì có tương đối ít các cuộc chiến tranh lớn, chính cục tương đối ổn định, có lợi cho việc khôi phục và phát triển kinh tế- xã hội.[tham 47] Lại thêm việc sau khi triều Đường suy yếu, Trung Nguyên bất ổn định, có không ít người nối tiếp nhau tiến về phương nam để đến Giang Nam, Hồ Quảng và Ba Thục, xa nhất đến tận đất Lưỡng Quảng.[tham 49] Quan Nội đạo, Hà Nam đạo, Hà Bắc đạo đều có hộ khẩu giảm sút rất nhiều; song ở các nơi phương nam như Tô châu, Ngạc châu, Hồng châu, Nhiêu châu, Cát châu, Tương châu, Dĩnh châu, Đường châu, Hành châu, Quảng châu đều có hộ khẩu tăng đáng kể. Theo cách nói đương thời, thì trong số hộ khẩu tại Tô châu, một phần ba là từ phương bắc đến; ở Vũ Xương số hộ khẩu tăng gấp ba lần chỉ trong vòng hai năm, đều phản ánh việc có nhiều người di cư về phương nam, khiến phân bổ nhân khẩu khá tập trung ở phương nam.[tham 50] Việc ổn định lâu dài có lợi cho phát triển sản xuất, khiến phủ khố của Thập Quốc dần trở nên đầy đủ. Mạt kỳ Ngũ Đại Thập Quốc, hộ khẩu Hậu Chu và Bắc Hán không quá 100 vạn, các nước phương nam thì lại đạt đến trên 270 vạn hộ. Trong số các nước, đông nhất là Nam Đường với khoảng 65 vạn hộ, tiếp đến là Ngô Việt với khoảng 55 vạn hộ, Hậu Thục có khoảng 53 vạn hộ. Tổng nhân khẩu của ba nước này đương thời chiếm một nửa dân số toàn Trung Quốc.[tham 51] Đến khi triều Tống thống nhất Trung Quốc, khu vực Hoa Bắc nguyên thuộc Hậu Chu và Bắc Hán có khoảng 100 vạn hộ, song khu vực phương nam nguyên thuộc chín nước thì có 230 vạn hộ. Những năm đầu Bắc Tống, tỉ lệ nhân khẩu nam bắc đại ước là 6:4.[tham 47]

Bảng hộ khẩu lưu động Ngũ Đại Thập Quốc
Niên đạiSố hộSố khẩuGhi chú
Đường Ai Đế năm Thiên Phục thứ 3 (907)Ước tính toàn quốc 20.000.000 ngườitriều Đường diệt vong
Hậu Chu Thế Tông năm Hiển Đức thứ 6 (959)2.309.812 hộ[tham 52]
Tống Thái Tông năm Thái Bình Hưng Quốc thứ 4 (979)3.790.000 hộ32.500.000 khẩuBắc Tống thống nhất Trung Quốc bản thổ

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Ngũ_Đại_Thập_Quốc http://www.britannica.com/EBchecked/topic/208994 http://www.britannica.com/EBchecked/topic/587074 http://military.china.com/zh_cn/dljl/songchao/01/1... http://edu.cnxianzai.com/gaozhongsheng/xuefazhidao... http://www.guoxue.com/shibu/24shi/Newwudai/xwdml.h... http://www.guoxue.com/shibu/24shi/oldwudai/jwdml.h... http://id.loc.gov/authorities/subjects/sh85024062 http://d-nb.info/gnd/4717161-3 http://vr.theatre.ntu.edu.tw/fineart/chap18/chap18... http://db1x.sinica.edu.tw/caat/caat_rptcaatc.php?_...